Một số bệnh lý thường gặp trong chẩn đoán hình ảnh
Hiện tại có rất nhiều bệnh lý được phát hiện thông qua chuẩn đoán hình ảnh chính vì vậy là đây được coi là phương pháp chuẩn đoán bệnh lý thông dụng và tiện lợi.
Viêm xương tuỷ xương
Là bệnh lý xương thường gặp mặt hàng ngày. Với triệu chứng lâm sàng rõ rệt, với hình ảnh phim X quang thường quy tiêu biểu thì không gian truân gì trong chẩn đoán sớm và điều trị có hiệu quả cho bệnh nhân. Đương nhiên, cũng có những trường hợp khó khăn, không tiêu biểu nhiều lúc phải sử dụng các phương pháp chẩn đoán đắt tiền như chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng trong khoảng, những xét nghiệm tiến bộ mới xác định được.
Đặc điểm của tổn thương xương trên phim X quang thường quy
Loãng xương và hủy xương sau đó là đặc xương.
Hoại tử khu trú của mô xương tạo thành những ổ abces và mảnh xương chết.
Bệnh thường xảy ra ở tuổi xanh, tỉ lệ cao nhất ở tuổi 15, nam đa dạng hơn nữ.
Vị trí thương tổn
Tiêu điểm thường chạm chán đầu tiên là đầu các xương dài, theo quy luật gần đầu gối, xa khớp khuỷu.
Giải phẫu bệnh và cơ chế bệnh sinh
Viêm xương mở đầu là một hiện trạng của rối loàn, thiểu năng tuần hoàn xương do viêm tắc tĩnh mạch xương (osteo- thrombophlébite), phù vật nài sản xuất ở trong công ty xương và tính năng của các hủy cốt bào, tạo cốt bào bị đảo lộn.
Nguồn máu nuôi dưỡng bị cách quãng do huyết khối nhiễm khuẩn trong xương (thrombose septique), đồng thời với doanh nghiệp viêm tạo ra phát triển cho vùng thương tổn không đồng đều, với đa dạng giai đoạn khác biệt.
Khởi thủy
Hồ hết các loại vi trùng gây bệnh đều có thể gây viêm xương nhưng chính là tụ cầu vàng.
Hình ảnh X quang quẻ và tiến triển
Tín hiệu thương tổn xương sinh ra ít nhất 3 tuần sau khi nhiễm khuẩn. Loãng xương không đồng đều và lan toả ở đầu xương dài hoặc hình ảnh gặm ở bờ gần sụn tiếp phù hợp. Có bức xúc ở màng xương cận kề với tiêu điểm trước tiên làm cho bờ của màng xương không đều.
Tổn thương tiến triển dẫn đến hoại tử xương tạo ổ abcès. Có khi rộng rãi ổ hoại tử nối tiếp nhau bên trong chứa một mảnh xương gọi là mảnh xương chết (hình thùng, thời điểm tình tiết trong phổ biến tuần hoặc phổ quát bốn tuần .
Tiếp theo sau sự tiêu diệt, có bức xúc đặc xương tự vệ kéo dài trong phổ thông bốn tuần. Bờ của thân xương không đều và biến dạng "hình cây gỗ mục" xen lẫn những mảnh xương chết có đậm độ cao hơn công ty hoại tử xung quanh.
Hình ảnh X quang đãng quá trình cấp: sự hủy hoại xương là chính yếu, bờ xương không đều, bức xúc màng xương dữ dội. Quá trình này hay hẳn nhiên gãy xương bệnh lý.
Khi bệnh tiến sang giai đoạn kinh niên: hình ảnh đặc xương mạnh, có ổ áp xe, mảnh xương mục, phản ứng màng xương rộng hơn.
Hình ảnh bệnh lý trên được cải thiện rõ ràng khi vấn đề trị kháng sinh. Thể mãn tính không để lại một di chứng nào, nhưng thể cấp có thể có di chứng ở trẻ thơ hoặc người lớn mạnh khỏe. Giả dụ vấn đề trị sớm ít khi nhiễm trùng thâm nhập tham gia xương, khi đã có thương tổn xương thì hình ảnh loãng xương và hủy xương được lập cập thay thế bởi đặc xương (xây đắp mô xương mới). Trường hợp không phục vụ yếu tố trị nội, cần cảnh giác u xương thể giả viêm, hoặc liên minh điều trị ngoại khoa.
Các thể viêm xương tủy không tiêu biểu
Chín mé: viêm xương đầu ngón tay.
Abcès Brodie: hoặc abcès ở trọng tâm của xương, là tiện thể viêm xương khu trú ở đầu xương, ở gốc chi hoặc ở thân xương chày. Nó có thể nhầm với một u xương dạng xương.
Viêm xương của Poncet: hiếm.
Viêm xương kiểu xơ của Garré.
Viêm đầu xương.
Viêm xương dẹp và ngắn.
Viêm xương thể giả u.
Viêm xương do tim la: ngày nay rất hãn hữu, cốt yếu ta thấy viêm xương ở thời kỳ thứ 3, xương thường bị là xương chày. Thân xương phình to ra, đặc xương, cong ra phía trước gọi là “ hình bao kiếm”.
Hình ảnh Siêu âm đối với viêm xương không có giá trị đặc hiệu, dĩ nhiên nhờ các máy có độ phân giải cao, với các đầu dò cao tần số (từ 7 - 10MHZ) ta có thể phối hợp bình chọn thương tổn của màng xương, ứng dụng nói quanh ổ viêm, tổ chức của ổ khớp dây chằng, bao hoạt dịch.
Viêm xương và khớp do lao
Đặc điểm trên phim X quang quẻ thường quy
Tiêu xương là chính.
Rất ít có đặc xương, thi thoảng có ổ abcès và mảnh xương chết.
Thường có thương tổn khớp cố nhiên.
Địa điểm tổn thương
Bệnh khu trú đông đảo là ở đầu xương gần sụn các khớp lớn, phụ trách tác dụng cơ học nặng nề: khớp háng, đầu gối, cổ hủ chân, vai, cổ lỗ tay, khuỷu tay, cột sống (viêm xương - khớp cột sống - spondylodiscite). Tỉ lệ bận bịu bệnh lao không ưu tiên cho một lứa tuổi nào, và nam nữ không có sự đặc biệt.
Viêm khớp lao gần như chỉ ở một khớp. Bệnh thường được phát hiện khi có các dấu hiệu viêm khớp trung bình và mạn tính: đau, hạn chế nhạo cử động, đôi khi sưng, tăng nhiệt tại chỗ. Dĩ nhiên tốc độ máu lắng tăng và thường có bệnh cảnh lao.
Hình ảnh X quang đãng và tiến triển
Viêm xương - khớp lao có những dấu hiệu mà ban sơ còn bí mật như: bờ của diện khớp mờ, có loãng xương dưới sụn khớp. Sau đó các triệu chứng trở nên rõ hơn:
Hẹp khe khớp.
Bờ khớp không đều.
Các hình khuyết quanh co sụn, thường biểu hiện rất sớm.
Hủy hoại xương dưới sụn, nhóc giới không rõ, hình thành nhị bờ khớp trong lòng đầu xương có đậm độ giảm rõ rệt.
Nếu như vấn đề trị được bắt đầu trước khi có tàn phá sụn quan trọng, bệnh sẽ khỏi không để lại di chứng. Tiến triển tự nhiên có thể lặng lẽ dẫn tới phá khớp và sau đó là cứng dính khớp.
Trong một số trường phù hợp, các tín hiệu X quang lại kín đáo, so sánh các phim đã chụp, nhất là chụp cắt lớp, có thể giúp phát hiện các tàn phá xương không dễ dàng nhìn thấy trên các phim chụp thường. Sau cuối, vài thể mở đầu từ bao hoạt dịch mà trên thực tế không có dấu hiệu X quang quẻ nào, chỉ thấy được trên hình ảnh cộng hưởng trong khoảng hoặc trên hình ảnh siêu âm.
Chẩn đoán xác định là cần thiết để tiến hành điều trị chống lao, yếu tố đó làm được bằng cách nuôi cấy dịch chọc dò, khiến Test bức xúc chuỗi RNA, thậm chí bằng sinh thiết bao hoạt dịch trong những trường phù hợp không dễ dàng nhất.
Các thể lâm sàng
Lao khớp háng:
Những dấu hiệu điện quang đầu tiên là mất chất vôi và hẹp khe khớp. Các hình khuyết xương ở bờ mờ khu trú gần nơi bám của dây chằng tròn, ở phần trên của đáy ổ cối và phần trước hoặc sau của cổ xương đùi. Về sau, các thương tổn trở nên rõ ràng hơn. Các hình áp xe thấy được trong ứng dụng.
Lao khớp gối (U lạnh đầu gối):
Trước tiên, tràn dịch nội khớp rất dễ thấy dưới dạng mờ hình quả lê ở mặt dưới của gân cơ tứ đầu. Mất chất vôi với hình khuyết nói quanh sụn khớp khu trú ở chu vi gờ xương chày, ở phần ngoài các lồi cầu và trong rãnh liên lồi cầu.
Lao khớp cũ rích tay (U lạnh cũ kĩ tay):
Lúc đầu, bệnh thể hiện bởi mất chất vôi sớm của toàn bộ khối xương cổ lỗ tay, và thường có hẹp khe khớp. Về sau có thể có các đơn côi khớp nhẹ (subluxation).
Lao khớp vai:
Ban sơ, ngoài mất chất vôi, tín hiệu đặc biệt nhất là hình khuyết màng sụn của phần trên chỏm xương cánh tay có hình cái rìu. Về sau, các hủy hoại xương sẽ rõ hơn.
Lao khớp cùng - chậu:
Thường xảy ra ở người trẻ, ở cả 2 bên và đông đảo là nam giới nên rất dễ nhầm với viêm cột sống dính khớp. Nhưng viêm khớp chỉ ở một bên. Sự mở rộng khe khớp thường kèm với đậm đặc vùng rìa sớm. Các áp xe có thể xuất hiện ở xa.
Lao xương khớp ở con trẻ:
Thời kỳ lao kéo theo sự thay đổi của mạng mạch máu đầu xương với sự xuất hiện sớm và phát hành non của các nhân cốt hóa. Cứng dính xương tự phát thường chạm chán.
Hình: Viêm sụn khớp do lao.
(a. lao khớp háng; b. lao khớp gối; c. lao khớp vai)
Viêm lao xương - khớp cột sống (Bệnh Pott)
Thể tiêu biểu ở người trẻ:
Khu trú ở lưng, bệnh được phát hiện do đau và cứng cột sống. Sự xuất hiện một bệnh cảnh lao rất có trị giá và khiến cho việc đi tìm tín hiệu đau khi ấn hoặc gõ một gai đốt sống, đôi lúc chỉ một dấu hiệu tâm thần cũng trở nên rất giá trị.
X quang có tầm quan trọng, phải có phim chụp thẳng và nghiêng đúng đắn các khoang liên đốt sống, không được lệch, và có thể các phim chụp cắt lớp thẳng và nghiêng.
Có 3 loại hình ảnh X quang chính:
Khoang liên đốt sống bị hẹp lại.
Các mặt đốt sống tương ứng bị ăn mòn, bị gặm, mất chất vôi, đôi lúc có các hình khuyết đối xứng.
Các ứng dụng lòng vòng đốt sống, ở đó người ta có thể nhìn thấy đám mờ hình thoi, thể hiện áp xe lạnh do lao.
Về sau, hẹp đĩa liên đốt sống tăng cao, các đốt sống bị tàn phá lồng khít vào nhau, dẫn đến bướu gù, ta có thêm triệu chứng “các cung khuông hình nan hoa”. Các gai xương phía trước hình thành muộn hơn.
Muộn hơn nữa, các mảnh đốt sống còn lại sẽ dính tham gia nhau, phân thành một khối đốt sống.
Dưới tính năng vấn đề trị, người ta thấy hình đặc xương xung quanh các ổ tiêu xương, sau đó công đoạn sữa chữa diễn ra từ từ nhưng các thương tổn đã có vẫn sống sót và thành các di chứng.
Các thể không điển hình:
Tùy theo đoạn tổn thương: ở cột sống cổ lỗ thường được nhận thấy nhanh nhưng có thể mang những biểu lộ tâm thần nặng. Trái lại, các thương tổn cột sống thắt lưng có thể bí mật lâu dài về mặt lâm sàng, hoặc thường biểu lộ bởi đau lưng ít ý nghĩa.
Tùy theo cơ địa: ở những bệnh nhân có ghép tạng, thương tổn thường đa đốt sống, có rộng rãi đốt sống bị thương tổn nhưng các đĩa đệm không bị biến dạng trong thời gian dài (ở đây thấy ích lợi của chụp cắt lớp để thấy các hình khuyết). Ở trẻ em, bướu gù xuất hiện sớm do phổ biến đốt sống kế tiếp lồng vào nhau.
Các biến chứng
Hoặc áp xe bị dò ra ứng dụng. Phát hiện dễ dãi trên siêu thanh hoặc trên cộng hưởng trong khoảng.
Các biến chứng của bệnh lao: phổi, màng phổi, thận, xương - khớp.
Các biến chứng tùy theo nơi định khu, khác lạ là các biến chứng thần kinh (liệt hai chi dưới do chèn ép).
Hình: Lao cột sống ngực.
(1. hẹp khe khớp; 2. diện khớp bị gặm mòn; 3. khuyết tiêu xương; 4. áp xe lạnh hình thoi)
U xương lành tính
Đặc điểm chung
Vững mạnh lờ đờ.
Giới hạn rõ.
Không di căn.
Thường tạo ra trong công đoạn xương đang tăng trưởng.
Phân loại
Tùy theo duyên do mô bệnh, người ta xếp các loại u xương lành tính như sau:
U xương (Osteome): Thường gặp ở hộp sọ, xương mặt. Ở địa điểm mô xương đặcvới hình ảnh đặc xương mờ đậm, không đều.
U xương dạng xương (Osteome ostéoide): Thường gặp gỡ ở xương dài của chi dưới, có kích thước bé bỏng.
U tạo cốt bào lành tính (Osteoblastome): Thảng hoặc, thường thấy ở cột sống, các xương lớn, dài của đầu chi. U có thể không cản quang đãng hoặc cản quang, cản quang lấm chấm.
U xương sụn (Osteochondrome): là bệnh chồi xương, di truyền. Vị trí u thường ở cạnh sụn, gần đầu gối hoặc khớp khuỷu. Loại này có thể ác tính hóa.
U sụn (Chondrome): Thường đơn lẻ ở các ngón tay, ngón chân. Hay gây gãy xương bệnh lý. Là một cấu trúc không cản quang đãng hoặc lấm chấm.
U nguyên bào sụn lành tính (Chondroblastome): Thường gặp ở thiếu niên, giữa đầu xương lớn, hình khuyết không cản quang quẻ, vỏ mỏng, lồi ra khỏi màng xương.
U lành tính có tế bào kếch xù (Tumeur à Myeloplaxe, Tumeur à cellule géante): Tức là u của các hủy cốt bào. Chỉ chạm mặt ở người trưởng thành, ở các đầu xương, có hình sáng kiểu tổ ong hoặc bọt xà phòng. U có thể thoái hóa và biến thành ác độc tính.
Ngoài ra còn có các u:
Huyết mạch, u nang, u xơ sụn hỗn thích hợp, u phình mạch cũng được xếp vào nhóm u xương lành tính khi chúng nằm ở trong xương.
Hình: Các địa điểm u xương thường chạm chán.
U xương ác tính nguyên phát
Đặc điểm chung
Lớn mạnh với tốc độ cao.
Giới hạn không rõ.
Xâm lấn ra màng xương và mô mềm tầm thường vòng quanh.
Di căn với tốc độ cao.
Thường được gọi là Sác côm xương (Osteosarcome), 80% trường phù hợp ở hành xương vùng đầu gối.
Phân loại
Tùy theo căn nguyên của mô phát sinh ta có các loại:
Sác côm tạo xương (Sarcome osteogenique).
Sác côm sụn (Chondrosarcome).
Sác côm xơ (Fibrosarcome).
Sác côm Ewing (màng xương).
Reticulô Sác côm (Reticulosarcome).
U nguyên sống (Chordome).
Adamantinôm còn gọi là Angioblastôm, Ameloblastôm ở răng: Là một khối tế bào giả biểu mô, chất nền dạng sợi, tế bào vảy, dạng không bào, chuyển thể mạch máu. Thường xâm lấn biểu mô bình thường vòng vo, nếu như ở hàm dưới 1/3 do nang dạng răng. Hay tái phát và có tính xâm lấn cao hơn sau khi cắt bỏ.
Thường chạm chán ở xương chày, mác, trụ, cánh tay, cũ kĩ tay, cũ rích chân, xương đùi.
Có hình khuyết tròn khuynh hướng lệch tâm, bờ xơ, đa ổ, có tấm tấm vôi bên trong.
Trên hình ảnh X quang quẻ chỉ có 2 loại khác nhau về độ cản quang đãng:
Sác côm không cốt hóa: Sác côm tạo xương, là một ổ tiêu xương ở trọng điểm có một số thớ xương rải rác. Phía ngoại vi có giận dữ của màng xương tạo nên hình ảnh: tia mặt trời, bụi cỏ, đám cỏ cháy... Tiến triển rất nhanh.
Sác côm cốt hóa: thường gặp hơn gồm Sác côm sụn, Sác côm xơ, Sác côm Ewing (màng xương), Reticulô Sác côm và u nguyên sống. Có đặc điểm ở đầu các xương dài.
0 nhận xét: